Dịch vụ dọn dẹp sổ sách kế toán

Dịch vụ dọn dẹp sổ sách nhanh gọn, chính xác, giá rẻ và chất lượng nhất tại Hà Nội.

Đội ngũ công ty chuyên nghiệp - tư vấn chuyên sâu

Với đội ngũ tư vấn thuế chuyên nghiệp, công ty chúng tôi tự tin là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tốt nhất.

Dịch vụ kế toán trọn gói

Tư vấn miễn phí các vấn đề kế toán mà doanh nghiệp thắc mắc chưa tìm ra hướng giải quyết cả thuế và nội bộ, giúp doanh nghiệp vững bước phát triển.

Sau tháng 7/2015, sẽ thay đổi cách tính chỉ số HNX - Index

Phiên họp thứ 7, Hội đồng chỉ số HNX đã quyết định đổi thay cách tính chỉ số HNX - Index kể từ tháng 1/2015. Nguồn: FinancePlus.Vn

 

>>> Xem thêm:  dịch vụ báo cáo thuế hàng tháng
 

 

Tại phiên họp nói trên, các thành viên Hội đồng chỉ số của HNX đã xem xét định kỳ bộ chỉ số của Sở, song song đánh giá kết quả chạy thử nghiệm chỉ số HNX FF Index trong 10 tháng vừa qua.

Chỉ số HNX FF Index chính thức vận hành từ ngày 2/12/2013 và được xem xét định kỳ hàng quý. Cứ quy định tại Bộ Nguyên tắc Xây dựng và Quản lý Chỉ số giá HNX, những cổ phiếu có tỷ lệ tự do chuyển nhượng dưới 5% sẽ bị loại khỏi rổ tính chỉ số HNX FF Index.

Các thành viên Hội đồng đều có chung nhận định chỉ số HNX FFIndex vận hành ổn định và phản chiếu sát diễn biến thị trường. Nên, Hội đồng chỉ số đã quyết định dùng phương pháp tính chỉ số HNX FF Index để ứng dụng tính toán chỉ số HNX - Index kể từ ngày 01/01/2015. Theo đó, HNX Index sẽ được xem dựa trên giá trị vốn hóa thị trường có điều chỉnh tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng của sờ soạng các cổ phiếu niêm yết và giao thiệp trên HNX có tỷ lệ tự do chuyển nhượng lớn hơn hoặc bằng 5%.

 

>>> Xem thêm: dịch vụ kế toán giá rẻ

 

Tại cuộc họp, Hội đồng chỉ số cũng đã ấn định thời khắc chính thức ra mắt chỉ số tổng thu nhập đầu tháng 12/2014 và bộ chỉ số trái phiếu vào tháng 01/2015. Chỉ số tổng thu nhập TRI - HNX 30 được tính hạnh dựa trên chỉ số gốc HNX 30. Cổ tức sử dụng trong phương pháp tính nết chỉ số này là tổng giá trị các khoản cổ tức bằng tiền mặt của các cổ phiếu trong rổ chỉ số HNX 30. Đây là chỉ số tham chiếu tốt cho các sản phẩm sử dụng hoặc kết nối với chỉ số HNX 30. Chỉ số TRI - HNX 30 sẽ được tâm tính và ban bố cuối ngày giao tiếp với điểm cơ sở 100 điểm và ngày cơ sở 03/01/2012 (trùng ngày cơ sở chỉ số HNX 30). Thời điểm ra mắt chỉ số dự định 1 tuần trước thời khắc Công ty quản lý quỹ SSIAM niêm yết chứng chỉ quỹ ETF SSIAM HNX 30 trên HNX.

Bộ chỉ số trái khoán do ngân khố quốc gia phát hành với nhóm các chỉ số thành phần gồm có chỉ số 2 năm, 3 năm, 5 năm và chỉ số tổng hợp. Mỗi chỉ số này được tính theo giá sạch, giá gộp, và tổng thu nhập. Nguồn giá được thu thập từ giá giao du, giá chào trên Hệ thống giao dịch TPCP, giá chào trên Hệ thống đường cong lợi suất và giá được xác định dựa trên định giá từ đường cong lợi suất.

 

>>> Xem thêm: nhận làm báo cáo tài chính
 

 

Hiện giờ, tại HNX, ngoài các chỉ số nói trên còn các bộ chỉ số ngành và bộ chỉ số quy mô. Bộ chỉ số ngành gồm 3 chỉ số: chỉ số ngành tài chính, chỉ số ngành xây dựng và chỉ số ngành công nghiệp. Việc xem xét các chỉ số ngành được thực hiện định kỳ theo quý đối với tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng của các cổ phiếu trong mỗi rổ chỉ số ngành. Dữ liệu tính toán được lấy tại ngày giao du rút cục của quý (ngày 31/03/2014) và được vận dụng sau ngày giao tế rốt cuộc của tháng tiếp theo, tức là ngày 05/05/2014.

Bộ chỉ số quy mô gồm 2 chỉ số HNX Large Cap Index và HNX Mid/Small Cap Index. Việc coi xét định kỳ được thực hành 6 tháng một lần, bao gồm điều kiện duy trì của các cổ phiếu trong rổ, việc chọn lọc chứng khoán thay thế trong rổ chỉ số HNX Large Cap Index và tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng của mỗi cổ phiếu thành phần trong rổ chỉ số HNX Large Cap Index và HNX Mid/Small Cap Index. Dữ liệu tâm tính được lấy trong vòng 06 tháng gần nhất tính đến ngày 31/3/2014.

 

Chi nhánh Viettel đã làm bệnh “cồng kềnh” như thế nào?

Giám đốc điều hành Viettel, ông Nguyễn Mạnh Hùng.

Bộ máy nhân lực của Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) đã bắt đầu trở thành ì ạch và kềnh càng, như chính trông của Tổng giám đốc Nguyễn Mạnh Hùng.

Phải chăng, Viettel, một trong rất ít tập đoàn quốc gia làm ăn hiệu quả tạm bợ gian qua, cũng sẽ không thoát khỏi “căn bệnh” thường thấy của doanh nghiệp Nhà nước?

 

>>> Xem thêm:  dịch vụ báo cáo tài chính cuối năm



Trước câu hỏi trên của VnEconomy, ông Nguyễn Mạnh Hùng nói:

- Một công ty khi to ra sẽ khó tránh được kềnh càng, ì ạch, bởi khi đó phần nhiều người quản lý có xu thế sinh ra nhiều quy định, quy trình nhằm tăng cường quản lý, thế nhưng bản chất lại làm cho bộ máy nặng ra, chậm đi.

Doanh nghiệp khi to cũng khó thiết kế cho từng con người, từng bộ phận được phân minh. Hoặc các bộ phận không rõ ràng, chồng lấn lên nhau. To ra sẽ có xu thế tuyển người nhưng không khắt khe, do vậy bộ máy cứ tăng dần và kềnh càng.

Đo cách khác để làm kiểu khác

Cuối năm ngoái ông san sớt, bộ máy quản lý, nhân sự của Viettel giờ cũng đang ì ạch và công kềnh, giờ thì sao rồi?

Chúng tôi nhận ra cái điều máy đã bắt đầu cồng kềnh và ậm ạch, và năm vừa rồi, Viettel đã giải câu chuyện đó, trước nhất là giảm bộ máy cơ quan.

Trong một tổ chức, bộ máy cơ quan nếu so với một thân thể người thì nó là cái bụng. Cái bụng mà to, mà béo thì thường là người có bệnh. Các tổ chức có vấn đề thì bao giờ cái bụng cũng to.

Viettel khi nhìn lại cũng to thật. Có lúc bộ máy quản lý cấp trung lên tới gần 1.000 người. Đây là bộ máy trung chuyển mệnh lệnh từ trên xuống và quan điểm từ dưới đi lên.

Bởi vậy, nếu bộ máy này càng to thì càng chậm, làm cho hệ thống không thông thạo. Nó cũng là bộ máy sinh ra các quy trình, quy chế, nên chi khi to ra sẽ có xu thế sinh ra rất nhiều thủ tục và làm tổ chức kém linh hoạt đi.

Viettel mới rồi làm hai đợt tinh giảm bộ máy quản lý cấp trung, và hết đợt thứ hai thì bộ máy này sẽ giảm hơn một nửa, chỉ còn trên 400 người.

Cùng với việc giảm nhân sự, chúng tôi cũng định nghĩa lại việc của cơ quan là gì và thiết kế lại tổ chức, để giao hội vào các công việc như tham vấn, định hướng, xây dựng cơ chế, chính sách, thẩm tra, đào tạo. Dựa trên thiết kế đó mới rà, phân bổ lại nhân sự.

Rất nhiều đứa ở trên tập đoàn có kinh nghiệm khi xuống các đơn vị cấp dưới thì mang lại hiệu quả tốt hơn, do họ vừa có lý luận, vừa có tầm nhìn, lại có thực tại nên đề xuất chính xác hơn, hiệu quả hơn.

Thứ nữa, chúng tôi ép mình phải đo năng suất cần lao và hàng năm đều đặt ra mục tiêu năng suất lao động phải tăng từ 15% trở lên. Nếu đo hiệu quả bằng doanh thu thì chưa hẳn đã tốt. Chẳng hạn, bán một cái iPhone khoảng 20 triệu đồng nhưng bản chất thì giá trị mang lại rất nhỏ. Thành thử nếu đo bằng doanh thu thì hiệu quả sẽ rất cao.

Tuy nhiên, năng suất của Viettel đo bằng doanh thu trừ uổng trước lương. Đó mới là giá trị thực thụ do mình tạo ra. Phép đo này xác thực hơn so với đo bằng doanh thu khá nhiều. Nếu năng suất không tăng thì tấm phải giảm người. Và quy định về năng suất cần lao như thế thì bộ máy sẽ bớt cồng kềnh, bớt ì ạch đi.

Ngoại giả, trong quá trình điều tiết, thiết kế lại để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, Viettel đã có phát hiện khá quan trọng là tính giá trị tăng thêm.

Cụ thể là gì vậy?

tỉ dụ như năm ngoái Viettel tạo ra 1.000 tỷ đồng, nếu năm nay doanh thu vẫn là 1.000 tỷ đồng, có vẻ to lắm và vẫn cảm thấy ổn. Nhưng chúng tôi lại không nghĩ vậy, mà với Viettel, như vậy là năm nay anh chỉ tạo ra 0 đồng.

Còn nếu tạo thêm 1 tỷ - tức thị 1.001 tỷ đồng - thì giá trị tăng thêm của anh mới là 1%; nếu tạo ra 1.100 tỷ đồng, giá trị tăng thêm của anh là 10%. Nếu đo như vậy, tác động tâm lý sẽ khác.

Nếu kế hoạch năm nay là 1.100 tỷ đồng và thực hiện đạt 1.050 tỷ đồng thì theo cách cũ, chúng ta đạt 95,45% kế hoạch; còn theo cách mới chúng ta chỉ đạt 50/100, tức 50% kế hoạch.

Khi chúng ta đo bằng giá trị tăng thêm thì bộ máy bắt buộc phải hiệu quả hơn, vì nó là cái mới, phải nghĩ ra cái mới, phải có sản phẩm mới, thị trường mới, khách hàng mới, và đó mới đích thực là sự sáng tạo mới. Khi tạo ra giá trị mới thì bộ máy phải cần lao kiểu khác, phải vắt óc ra mà nghĩ.

Và như thế tự nó sẽ điều chỉnh, để trở nên không ì ạch.

Thời kì qua, Viettel “dính” phải một số vụ lùm xùm, tạo ra những bức xúc nhất mực cho một số người dùng, như trong đăng ký dịch vụ, trừ tiền của khoản, khuyến mại… Liệu đây có phải là biểu thị của bộ máy cồng kềnh và ì ạch không?

Đúng là Viettel mới rồi bị một số việc này việc kia như: lăng xê chưa đủ độ minh bạch, khuyến mại lập lờ, … Khi thị trường cạnh tranh thì mọi người phải thế tăng doanh thu, cũng có lúc làm quá đà và gây ảnh hưởng tới một số khách hàng.

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, đó không phải là môn phái Viettel, không phải là văn hóa Viettel, không phải là sự chỉ đạo từ lãnh đạo tập đoàn.

Khi nhìn thấy có những dấu hiệu như thế thì Viettel đã chỉnh đốn quyết liệt trong nội bộ, không chỉ tại Viettel Telecom mà là quơ tập đoàn. Tôi đề nghị, luôn phải đặt quyền lợi khách hàng lên trước, vì khách hàng yêu quý mình sẽ giáp với mình.

Còn lừa dối khách hàng dù chỉ một lần thì họ sẽ nhận ra và họ không thiếu những lựa chọn khác. Chưa kể tới mối hiểm nguy của việc truyền khẩu những thông tin không tốt về Viettel sẽ còn hiểm hơn.

Như vậy, lợi thì ngắn hại thì dài. Vì thế, mới đây tôi cho thẩm tra lại toàn bộ các chương trình khuyến mại, cách khuyến mại, các sản phẩm, ắt những gì không hiệp và có thể ảnh hưởng tới khách hàng là bỏ tất.

Tôi cũng yêu cầu các đơn vị thành lập các kênh thông báo để tiếp nhận quan điểm của khách hàng, trao thưởng cho những quan điểm xác đáng, giúp Viettel sửa lỗi trong chính sách, quy định, bộ máy của mình.

Theo chủ quan của ông, với sự thay đổi trên, liệu có thể nói Viettel đã tạm hết kềnh càng chưa?

Mãi mãi không bao giờ hết kềnh càng được. Bao giờ một tổ chức cũng có những ì ạch riêng, cồng kềnh riêng, diệt hết chỗ này thì nó lại sinh ra chỗ kia. Nó như bệnh muôn thủa của bất kỳ tổ chức nào.

Chỉ có điều mình nhìn thấy thì mình lại điều chỉnh. Nhưng, sự ậm ạch của bộ máy đôi khi cũng có cái hay của nó. Vì nó giữ cho bộ máy ổn định một mực. Hẳn nhiên sự ì ạch đó phải nằm ở mức hài lòng được.

 

>>> Xem thêm: công ty kế toán tại hà nội



“Căn bệnh của số lớn”

Một thực tại, bấy lâu, người ta vẫn thường cho rằng, khối doanh nghiệp quốc gia, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty thường có bộ máy quản lý kềnh càng, kém hiệu quả?

Doanh nghiệp nào cũng thế. Kể cả doanh nghiệp tư nhân hay những doanh nghiệp hàng đầu như Samsung, Nokia thì họ cũng cồng kềnh không kém gì mình, thậm chí còn hơn mình.

Vì thế mới có những đợt sa thải vài chục ngàn nhân viên mà chúng ta vẫn thấy báo chí đưa tin. Với Viettel, chúng tôi luôn tự chủ động để thay đổi nên không phải đối mặt với việc phải cắt giảm nhân sự. Viettel tăng năng suất lao động không phải bằng cách sa thải viên chức mà bằng cách tạo ra sức việc mới.

Chính thành ra đây là căn bệnh của số lớn, chứ không phải của riêng doanh nghiệp quốc gia.

Trên thực tế, một tổ chức lớn có những cách vận hành tương đối giống nhau. Kể cả những doanh nghiệp tư nhân chưa lớn, cỡ 1.000 người, thì vẫn có những câu chuyện ì ạch. Ông chủ doanh nghiệp tư nhân 1.000 người cũng làm sao nhìn thấy mặt nhân viên cấp dưới cùng và cũng chẳng thể nghĩ ra cách quản lý để cho viên chức thứ 1.000 làm hết công suất.

Bộ máy do người lãnh đạo thiết kế ra, không có quy định bức nào. Các công ty to ra thì hiển nhiên sẽ sinh ra quan, sinh ra ì ạch, đó là căn bệnh cố hữu thì phải tìm cách chữa nó. Anh là người thiết kế ra nó, anh hoàn toàn có quyền thay đổi, điều chỉnh.

Nhưng người ta ít nhìn doanh nghiệp tư nhân như vậy?

Vì nhiều lúc mình nhìn doanh nghiệp Nhà nước cũng hơi thành kiến. Hiện nay cứ lấy ra một doanh nghiệp quốc gia, rồi xuống tận nơi xem, mổ xẻ, rồi mang “ông” tư nhân ra so sánh xem sao. Nhưng tôi nghĩ chắc mọi người cũng chưa làm việc đó. Bởi vậy, mặc cả từng lớp nghĩ cứ doanh nghiệp quốc gia là kém hiệu quả.

Hay có phải xuất phát từ một số doanh nghiệp “bị để ý nhiều”, kiểu như EVN?

Cũng không đánh giá EVN như thế được vì có công ty nào để so sánh đâu, phải có công ty khác để so sánh thì mới biết chứ. Ví dụ như ngoài Viettel thì còn có Vietnammobile, Saigontel, hay Beeline trước đây…, là các công ty hiệp tác quốc tế, doanh nghiệp có vốn nước ngoài, nhưng xét về mặt hiệu quả thì chênh nhau đến ngàn lần.

Chúng tôi hiện lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là hơn 40%. Lợi nhuận trên doanh thu là 20%, trong khi các doanh nghiệp kia thì đang lỗ.

Muốn mổ xẻ thì phải mang con số ra, dĩ nhiên là với chỗ nào có cạnh tranh. Còn những chỗ không cạnh tranh thì không biết so sánh thế nào.

Như điện lực hiện nay lợi nhuận chưa cao hoặc có những năm bị lỗ là do Nhà nước định giá. Nếu quốc gia định giá thấp, thậm chí dưới giá thành thì lỗ là đúng. Khi có sự quản lý về giá thì rất khó đánh giá doanh nghiệp ấy hiệu quả hay không hiệu quả. Giả dụ vứt ra thị trường thì mới đánh giá được ai hiệu quả. Đánh giá doanh nghiệp độc quyền là rất khó.

Sự ậm ạch, kềnh càng và hạn chế phát triển của khối doanh nghiệp quốc gia còn được ngó vì có quá nhiều “suất ngoại giao”? Ở Viettel thì sao, nếu ông có thể san sớt?

Doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân cũng là một tổ chức trong một từng lớp, cũng có quan hệ xã hội. Có khi doanh nghiệp tư nhân còn nhiều quan hệ hơn. Nó là một hiện tượng tầng lớp.

Thứ hai, trong một tổ chức có rất nhiều việc, có những việc đòi hỏi anh học ở Harvard nhưng cũng có những việc chỉ cần lao động phổ biến như pha trà, photocopy. Vấn đề là anh bố trí như thế nào, toàn Harvard thì tổ chức cũng không hoạt động được, mà toàn cần lao phổ quát thì tổ chức đó chết.

Vì thế, vấn đề là chúng ta phải đẩy các doanh nghiệp Nhà nước phải sáng tạo, phải tạo ra giá trị, phải cạnh tranh, đặt ra cho nó những mục tiêu và ngày càng cao hơn về các chỉ số lợi nhuận trên vốn, trên doanh thu, trên năng suất lao động.

Nhưng cũng có một vấn đề được quan hoài là, một số lãnh đạo doanh nghiệp lại cho rằng, mức lương bây giờ đối với lãnh đạo là thấp, thậm chí không đủ để giữ người tài hoặc kích thích năng lực sáng tạo, phát triển. Trong khi đó, rất đông quan điểm cầu mong, lãnh đạo không ít các tập đoàn, tổng công ty được trả lương cao so với hiệu quả mang lại. Ông cầu mong hai luồng quan điểm đó như thế nào?

Dễ làm lắm. Giờ chỉ cần làm một nghiên cứu, như ngành viễn thông, thì xem quỹ lương chiếm khoảng bao lăm phần trăm doanh thu hoặc doanh thu trừ tổn phí. Nghiên cứu một vài nước gần giống mình thì sẽ tìm ra con số đó.

Trong quỹ đó thì lương của Tổng giám đốc hay ban giám đốc điều hành chiếm bao lăm phần trăm doanh thu hoặc doanh thu trừ hoài. Hoặc cũng có thể khảo sát được mức lương tuyệt đối, trung bình của các doanh nghiệp viễn thông lớn, coi con số đó là thị trường và mang ra để áp dụng, so xem cao hay thấp.

Còn không có tiêu chuẩn thì chẳng biết cao hay thấp.

Theo tôi, lương là một cơ chế thị trường vì khi cạnh tranh nhau phải thu hút nguồn lực và nó tự hình thành mức lương cho ngành ấy. Quốc gia hoàn toàn có thể có những nghiên cứu đó, tìm ra mức lương làng nhàng của ngành và cho doanh nghiệp quốc gia hưởng mức đó, cũng không khăng khăng phải cho hưởng mức cao nhất, cố nhiên là doanh nghiệp Nhà nước phải có lãi.