Chính sách về tỷ giá: bình ổn vĩ mô & tương trợ xuất khẩu?

Việc điều chỉnh tỷ giá liên nhà băng giữa đô la Mỹ (USD) và tiền đồng (VND) tăng 1%, từ 21.036 lên 21.246 đồng từ ngày 19-6 đã được dự báo trước bởi thị trường, bộc lộ qua phản ứng của thị trường chứng khoán và những bình luận trước và sau điều chỉnh tỷ giá trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Tuy nhiên, câu hỏi còn lại là việc điều chỉnh này phát đi tín hiệu gì từ chính sách? Liệu chúng ta sẽ chờ gì từ những đợt điều chỉnh tỷ giá tiếp theo trong năm nay?

đầu tiên, tác giả Thảo Nguyên trong bài viết của trên TBKTSG [1] đã trích dẫn thông cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và chỉ ra một trong những căn nguyên khiến NHNN vui lòng “hỗ trợ xuất khẩu” chuẩn y điều chỉnh tỷ giá là vì chỉ số giá tiêu dùng được kiểm soát ở mức thấp và tỷ giá duy trì ổn định khá lâu, trong khi thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định. Điều thích thú là ở đây, cả ý kiến ổn định vĩ mô và điều chỉnh tỷ giá tương trợ xuất khẩu cùng xuất hiện một lúc.

Giữa hai chính sách này vốn tồn tại mâu thuẫn ở một mức độ nhất mực. Nếu muốn giữ vững quan điểm chính sách ngày nay là ổn định vĩ mô và duy trì niềm tin vào VND, NHNN phải giữ một mức chênh lệch đủ lớn về lãi suất của VND và USD, đồng thời giữ cho VND không mất giá quá nhanh khiến mức chênh lệch lãi suất này không còn nhiều ý nghĩa. dịch vụ quyết toán thuế cuối năm 

Nhưng điều chỉnh giảm tỷ giá, hoặc hiểu theo nghĩa phá giá và mở đường cho nới lỏng tiền tệ hơn nữa, lại sẽ tạo nguy cơ lạm phát và khiến cầu mua USD tăng lên, như nhà băng HSBC có đề cập trong một nhận định gần đây [2]. Ở đây chúng ta đang nói đến kỳ vọng (expectation) về lạm phát và sự mất giá của VND. Một sự mất ổn định trong giá cả tiêu dùng và giá VND có thể dẫn đến kỳ vọng lạm phát sẽ tăng càng cao và VND sẽ càng mất giá. Nếu rủi ro càng cao, kỳ vọng về phá giá và lạm phát sẽ càng lớn, tạo thành một vòng xoáy  liên tục mà chúng ta thấy trong vài năm trước đây, khi mà chúng ta đối phó với lạm phát hai con số và việc báo nước ngoài gọi đồng VND là đồng tiền “mất giá kinh niên”. Như vậy, có sự mâu thuẫn ở một mức độ nào đó giữa việc muốn giữ ổn định vĩ mô và việc phá giá đồng tiền (ở một qui mô lớn) để cải thiện sức cạnh tranh. NHNN không thể lựa chọn cả hai.

Nhìn lại thông điệp của NHNN ở trên, quan điểm của NHNN là khá rõ ràng, ổn định vĩ mô thì NHNN mới điều chỉnh tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu một tẹo (1%). Nói cách khác, trong trật tự ưu tiên của NHNN, ổn định vĩ mô vẫn là ưu tiên. Ở dạng ngày nay, rủi ro về lạm phát đang được đánh giá là thấp, và sự ổn định của VND trong một thời kì dài khiến kỳ vọng về phá giá không nhiều, NHNN đã ít nhiều tạo ra uy tín rằng mình có thể làm chủ được dụng cụ về chính sách tiền tệ.

Những bình luận từ các NHTM trong nước và nước ngoài sau đợt điều chỉnh tỷ giá cho thấy thị trường không kỳ vọng sẽ có những điều chỉnh tỷ giá mạnh nữa từ nay đến cuối năm, mà chỉ là điều chỉnh trong đích biến động 2%/năm mà NHNN đưa ra trước đó. Nên, điều chỉnh tỷ giá lần này không trình bày sự thay đổi trong quan điểm chính sách của NHNN, mà chỉ củng cố thêm rằng NHNN vẫn ưu tiên giữ ổn định vĩ mô và niềm tin vào VND. Tuy nhiên, điều này cũng đồng tức là còn lâu đồng VND mới trượt về mức tỷ giá cân bằng có lợi cho sức cạnh tranh của Việt Nam.

Ở đây xin bàn thêm qua vấn đề về phá giá để tương trợ xuất khẩu.

Về cơ bản, có rất nhiều qua điểm trái chiều về vấn đề này, thể hiện qua rất nhiều bài viết trên TBKTSG từ giữa năm ngoái tới nay. Một mặt, nhiều người tin rằng VND bị định giá cao (có số liệu cho là lên tới 20%), và do đó cách tốt nhất để khôi phục sức cạnh tranh là phá giá mạnh hơn nữa VND để hỗ trợ xuất khẩu.

Nền kinh tế Việt Nam sau một đợt phá giá mạnh sẽ lại trở nên một nền kinh tế uổng cao, năng suất thấp và sẽ lại phải tiếp kiến … phá giá. Muốn cải thiện sức cạnh tranh, phải quyết tâm canh tân DNNN, gỡ bỏ những nút thắt về thể chế để tăng năng suất và năng lực ứng dụng công nghệ. Khi đó rồi hãy nghĩ tới dùng tỷ giá để hỗ trợ cho sức cạnh tranh.

Ngược lại, cũng có nhiều ý kiến chỉ ra rằng với cơ cấu nhập khẩu nhiều nguyên liệu về để sinh sản hàng xuất khẩu, và giới hạn về chủng loại sản phẩm và khả năng tiếp cận thị trường của Việt Nam, phá giá sẽ không giúp ích gì nhiều, trong khi tăng nguy cơ lạm phát, nợ nhà nước (khi tính bằng VND) và khiến người ta chuyển tài sản từ VND ra ngoại tệ hoặc đầu cơ tạo ra bong bóng tài sản. Với những giới hạn về chất  lượng nguồn số liệu tại Việt Nam, không dễ gì phân định được ý kiến nè chính xác hơn (chẳng hạn phá giá thì xuất siêu đổi thay bao nhiêu phần, lạm phát đổi thay bao lăm và ích nào lớn hơn). công ty dịch vụ kế toán 

Trong điều kiện hiện tại, khi mà NHNN phải cân đong, đo đếm giữa hai chọn lọc: (1) chính sách ổn định vĩ mô, giữ đồng VND ổn định (được cho là thành công của chính sách tiền tệ) và (2) cho đồng VND mất giá nhiều hơn nữa để hỗ trợ xuất khẩu (nhưng đi kèm với rủi ro về lạm phát, bong bóng tài sản, gánh nặng nợ và sự gia tăng chuyển đổi tài sản từ VND sang đồng tiền khác), hẳn nhiên NHNN sẽ ưu tiên chọn lọc (1). Giữa một cái được cho là “công”, và một cái có nhiều khả năng trở nên “tội”, NHNN có lẽ sẽ chọn phương án an toàn. Điều này cũng ẩn ý là nếu trong thời gian tới, lạm phát duy trì thấp và cán cân thanh toán ổn định, NHNN sẽ có nhiều nhịp điều chỉnh tỷ giá thêm một chút nữa, nhưng khó mà có một cú sốc tỷ giá.

Nhưng sự ổn định tỷ giá quá nhiều trong năm nay và năm trước cũng chứa đựng những rủi ro tiềm tàng trong ngày mai. Tỷ giá ổn định trong năm nay là do lạm phát thấp, những tiện lợi từ cán cân tổng thể (ước tính thặng dư đến 10 tỉ USD) và việc xuất siêu. Cán cân vãng lai và cán cân thanh toán tổng thể rất dễ bị tác động bởi các yếu tố từ bên ngoài, chả hạn như nhập siêu trở lại, kiều hối và vốn đầu tư nước ngoài chững lại. Thiếu vốn mới và nhập siêu thì bao tay tỷ giá sẽ trở lại, khi đó áp lực điều chỉnh tỷ giá dồn nén lâu nay do đồng VND bị định giá cao sẽ được khuếch đại, các nhà phân tích sẽ đổi thay ý kiến và kỳ vọng về mất giá của VND sẽ khác.

Khi đó việc giữ ổn định VND quá lâu sẽ dẫn đến nguy cơ phải thực hành một đợt điều chỉnh tỷ giá mạnh (bài học điều chỉnh tỷ giá hơn 9% trong năm 2011 vẫn còn đó) khi các nhân tố vĩ mô đột ngột trở nên bất lợi. Để tỷ giá trở thành tấm đệm cho nền kinh tế trước những bất ổn này, chính sách tỷ giá cần phải linh hoạt hơn nữa. Những cam kết biến động 2% có nhẽ nên được coi xét lại trong những năm tới. Đưa ra một khung biến động tỷ giá cao hơn, nhưng bảo đảm tỷ giá vẫn nằm trong khung đó, không những không khiến NHNN “mất điểm”, mà còn duy trì niềm tin vào hiệu quả chính sách tiền tệ và uy tín của người điều hành.

Sức ép mất giá VND về dài hạn là một thiên hướng chẳng thể tránh khỏi khi mà ngoài sức cạnh tranh về giá, Việt Nam không có cải thiện đáng kể về khả năng tiếp cận và chừng độ sẵn sàng cho công nghệ (thậm chí trong một vài ít của World Bank và ADB, đây còn là điểm yếu), không có cải thiện đáng kể về năng suất. làm báo cáo tài chính 

Huống chi lạm phát tại Việt Nam, một trong những nhân tố dẫn dắt sức mạnh đồng nội tệ và cũng bị ảnh hưởng đáng kể từ một đồng nội tệ yếu, có nguồn cội từ nội tại của nền kinh tế (chả hạn, tác giả Bùi Trinh từng nhận xét rằng duyên cớ sâu xa của lạm phát là do hiệu quả đầu tư [3]). Chừng nào  mà DNNN còn có hiệu quả thấp nhưng nhận được đầu tư nhiều, và không có cải thiện về cơ cấu, năng lực công nghệ và năng suất, không gỡ bỏ những nút thắt từ môi trường kinh dinh và thể chế thị trường, VND mất giá chỉ là vấn đề thời gian.

Tuy nhiên, nói như vậy không có tức là tôi không ủng hộ một đợt phá giá mạnh VND để cải thiện sức cạnh tranh ngay lúc này. Đơn giản là vì ta phá giá được thì nước người ta cũng phá giá được, huống chi kiểu cạnh tranh như thế này sẽ chỉ khiến cho người ta càng có bằng cớ nói rằng chúng ta “trợ giá” cho nhiều loại đầu vào của nền kinh tế (gần đây nhất là chuyện giá nhiên liệu [4]).

Mặt khác, phá giá rồi thì lại tạo điều kiện cho các DNNN độc quyền đòi tăng giá (chả hạn giá xăng dầu), khiến họ trì hoãn cách tân (vì phá giá giúp họ có sức cạnh tranh về giá nên không cần phải cải tiến năng suất). Đâu lại vào đấy, nền kinh tế Việt Nam sau một đợt phá giá mạnh sẽ lại trở thành một nền kinh tế chi phí cao, năng suất thấp và sẽ lại phải tiếp chuyện … phá giá. Muốn cải thiện sức cạnh tranh, phải kiên tâm cách tân DNNN, gỡ bỏ những nút thắt về thể chế để tăng năng suất và năng lực áp dụng công nghệ. Khi đó rồi hãy nghĩ tới dùng tỷ giá để tương trợ cho sức cạnh tranh.

Thay vào đó, trước mắt, để tránh một cú sốc tỷ giá do những sức ép trong ngày mai, NHNN cần sáng tỏ và linh hoạt hơn với các cam kết của mình về tỷ giá. Thay vì cam kết nhưng khung biến động 2%/năm với những căn do ổn định mơ hồ, NHNN có thể đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng hơn cho cam kết này (và không cần nhất định phải là 2%). Chẳng hạn, NHNN đưa ra một chỉ dấu rằng cái cam kết tỷ giá này dựa trên cơ sở là lạm phát thấp hơn bao lăm, nhập siêu bao lăm và vốn nước ngoài bao nhiêu, tiền nước ngoài mất giá bao lăm, thì NHNN sẽ giữ cam kết này. Cũng từ đó, người dân và nhà phân tích có thể theo dõi những chỉ báo này để đoán được hành xử của NHNN, không bị “đánh úp” nữa.

Hồ Quốc Tuấn

Giảng sư đại học Bristol, Anh